Thứ Hai, 27 tháng 1, 2014

Hiện Tượng Phanxicô, Vị Giáo Hoàng Làm Xoay Chuyển Thế Giới - Thụy My



Mới cách đây chưa đầy một năm chưa ai biết đến, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã trở thành một nhân vật được đông đảo người trên thế giới mến chuộng, thậm chí đã tạo nên một làn sóng ái mộ, dù là người Công giáo hay ngoại đạo. Nhật báo Le Figaro nhận xét, ngay cả Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ nhị trước đây cũng không tạo được vầng hào quang toàn cầu nhanh chóng như thế.

Le Figaro đã bắt đầu bằng từ tiếng Tây Ban Nha « fenomenal» (phi thường). Đây không phải là lời bình về một bàn thắng của đội bóng đá Achentina, mà là tiếng nói từ trái tim của nhiều người trên hành tinh dành cho Đức Giáo hoàng Phanxicô, nhân vật đã thu hút đông đảo người trên thế giới chỉ trong vòng chín tháng.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong buổi ra mắt đầu tiên của ngài trước Giáo hội và toàn thế giới tối 13-3-2013

Chín tháng, hãy còn quá ngắn ngủi để trở thành Giáo hoàng. Nhất là tại Vatican, nơi các vị Giáo hoàng tập sự thường phải mất nhiều năm trời trong bộ máy Tòa Thánh. Giáo hội tìm kiếm một làn gió mới trong thiên niên kỷ mới, và Mật nghị Hồng y hôm 13/3 đã chọn ra một vị Hồng y Mỹ latinh vô danh, nay đã trở thành thần tượng được nhiều người ngưỡng mộ.

Đức Giáo hoàng Phanxicô, 77 tuổi, tuổi cao và sức lại yếu do đã bị cắt bỏ một thùy phổi vào năm 21 tuổi, đã từng bị loại một lần trong Mật nghị Hồng y năm 2005 một phần cũng vì lý do « sức khỏe không tốt ». Nay ngài đã chứng minh ngược lại, một cách hết sức ngoạn mục.

ĐGH. Phanxicô ( Ảnh của Nam Ròm)


Hôm 4/12 tại Roma, vị Hồng y thân tín người Honduras của ngài là Oscar Maradiaga đã nhận xét : « Đó là một ngọn núi lửa ».

Tuy vậy Đức Giáo hoàng Phanxicô hôm 4/7 tại Sardaigne vẫn khẳng định : « Tôi không phải là Tarzan ! »

Nhà truyền giảng tin mừng thích thêm vào chất hài hước, những câu nói độc đáo trong những thông điệp của mình. Nhưng ngài tìm cách làm giảm bớt sự cuồng nhiệt của đám đông, của hàng triệu người đã xa rời Giáo hội, đang trông đợi rất nhiều ở ngài vào cuối một năm khá âm u. Chưa có một Giáo hoàng nào kể cả Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ nhị được thế giới ngưỡng mộ đến thế, với sự nhiệt thành như thế.

Nhân vật « tỉnh lẻ » siêu năng động, vừa huyền ảo vừa thực tiễn lần lượt ghi nhiều bàn thắng, làm đầy các hội trường, thu hút vô số ống kính truyền hình, hoàn toàn tương phản với người tiền nhiệm.

Dư luận - cho đến nay rất thiện cảm - hoàn toàn có thể đổi chiều. Nhưng sau chín tháng trở thành Giáo hoàng, « hiện tượng Phanxicô » lại càng sôi nổi hơn.

Nhân vật của năm, một trong những người quyền lực nhất thế giới

Sự thừa nhận có thể coi là ngoạn mục nhất đến từ tạp chí Time uy tín của Mỹ. Ngày 11/12, Time đã chọn Đức Giáo hoàng Phanxicô là « Nhân vật của năm 2013 ».Đây là vị Giáo hoàng thứ ba được vinh dự này kể từ năm 1927, năm mà Time bắt đầu chọn lựa các nhân vật trong năm.



Đức Giáo hoàng đầu tiên được trao danh hiệu này là Giáo hoàng Gioan XXIII, người đã tổ chức Công đồng Vatican II,

và tiếp đó là Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ nhị, nhưng phải chờ đến tận năm 1994, tức là 16 năm sau khi ở ngôi vị Giáo hoàng, trong khi Giáo hoàng Phanxicô mới cách đây một năm còn chưa được ai biết đến. Time nhận xét : « Điều quan trọng ở Giáo hoàng Phanxicô là Ngài đã nhanh chóng thu hút nhiều triệu người trước đây đã không còn hy vọng nào nơi Giáo hội ».

Hôm 30/10, Đức Giáo hoàng Phanxicô cũng được tạp chí Forbes của Mỹ xếp vào hàng thứ tư trong danh sách các nhân vật quyền lực nhất thế giới, chỉ sau nguyên thủ các nước Nga, Mỹ và Trung Quốc. Một nhà ngoại giao nhiều kinh nghiệm ở Roma nhận xét : « Người ta không còn lắng nghe Đức Giáo hoàng tiền nhiệm là Benedicto 16. Với Đức Giáo hoàng Phanxicô, Giáo hội lại được coi là một trong những tổ chức có ảnh hưởng lớn nhất. Các nguyên thủ quốc gia lại quan tâm đến Vatican ».

Ngày 2/10, Tổng thống Mỹ Obama công khai tuyên bố « vô cùng ấn tượng » bởi vị Giáo hoàng. Một tháng trước đó, Thủ tướng Đức Angela Merkel, vốn có cha là một mục sư Tin Lành, đã tuyên bố bà là « fan » của Đức Giáo hoàng Phanxicô.

Còn Tổng thống Pháp François Hollande tuy không hào hứng mấy với cuộc hội kiến Giáo hoàng Benedicto 16, nay đã đến gõ cửa Vatican.

Ủy ban châu Âu cũng không ngoại lệ : hôm 13/12 đã trao cho Giáo hoàng Phanxicô giải Người truyền thông toàn cầu của năm 2013.

Đặc biệt tạp chí uy tín của cộng đồng người đồng giới The Avocate hôm 16/12 đã dành cho trang nhất cho Đức Giáo hoàng Phanxicô với câu nói nổi tiếng của ngài :« Tôi là ai mà phán xử ? » Công ty Mỹ The Global Language Monitor chuyên thu thập thông tin trên internet cho biết cái tên được sử dụng nhiều nhất trên mạng bằng tiếng Anh trong năm 2013 là « Pope Francis » (Đức Giáo hoàng Phanxicô). Tương tự, đây là chủ đề được thảo luận nhiều nhất của 1,2 tỉ người sử dụng Facebook trong năm nay.

Ngài cũng thành công trên mạng Twitter : tài khoản của Đức Giáo hoàng tại Twitter có đến 11 triệu người theo dõi, gấp bốn lần so với người tiền nhiệm. Vatican ước tính mỗi một tweet (tin nhắn Twitter) của ngài có ảnh hưởng đến “ít nhất 60 triệungười” vì được truyền đi hầu như vô tận.

Một làn sóng ái mộ chưa từng thấy, được khẳng định với hai cuộc thăm dò dư luận mới đây tại Hoa Kỳ.

Thăm dò thứ nhất do Wall Street Journal và kênh truyền hình NBC tổ chức, công bố hôm 11/12, cho biết 57% người Mỹ có ấn tượng tích cực về Đức Giáo hoàng Phanxicô.

Kết quả một cuộc thăm dò khác của Washington Post và kênh truyền hình ABC công bố cùng ngày loan báo tỉ lệ này là 64%, và nói thêm, chưa bao giờ ý kiến tích cực đối với Giáo hội Công giáo lại cao như thế : đến 62%.



Tại Ý, hiện tượng Phanxicô có thể thấy rõ qua số lượng người tham dự các buổi lễ ngày thứ Tư hàng tuần tại Quảng trường Thánh Phêrô, từ 30 đến 60.000 người, gấp bốn lần so với trước đây. Bưu điện của quốc gia nhỏ nhất thế giới này bị tràn ngập với hai ngàn lá thư mỗi ngày gởi riêng cho Đức Giáo hoàng Phanxicô, chưa kể đến thư điện tử. Nhiều tín đồ để lại số điện thoại, hy vọng một ngày nào đó sẽ nhận được một cuộc gọi từ người đứng đầu Giáo hội Công giáo.

Cơ quan du lịch thành phố Roma ghi nhận số khách từ châu Mỹ latinh đến viếng Tòa Thánh tăng 20% trong năm 2013, trong khi đây là năm ảnh hưởng nặng nề nhất từ khủng hoảng.

Cơn sốt mộ đạo bất ngờ

Nhưng đối với Giáo hội, lại có một ngạc nhiên khác : đó là cơn sốt mộ đạo bất ngờ.

Một nghiên cứu xã hội học tiến hành với 250 linh mục Ý và được công bố vào tháng 11 cho biết gần phân nửa ghi nhận « hiện tượng Phanxicô », với sự gia tăng đáng kể số người đi lễ.

Ở cấp quốc gia, kết quả này cho phép các nhà xã hội học khẳng định : « Nếu phân nửa các giáo xứ chịu ảnh hưởng của ‘hiện tượng Phanxicô’, có thể nói hàng trăm ngàn người đã bắt đầu trở lại nhà thờ ».

Khuynh hướng này, theo người chủ trì nghiên cứu là Massimo Introvigne « không những không giảm đi mà ngày càng mạnh mẽ hơn ».



Đức Giám mục Giovanni d’Ercole nhận thấy : « Đức Giáo hoàng Phanxicô đã gây xúc động và truyền đi nhiệt huyết, đặc biệt đối với những người đã xa rời việc đạo. Họ đi xưng tội nhiều hơn và quay lại với nhà thờ ».

Theo Le Figaro, đây là khuynh hướng toàn cầu chứ không chỉ tại Ý quốc.

Tại Anh, trong tháng 11 số người thường xuyên đến các giáo xứ tăng 20%,với nhiều « con chiên lạc » quay lại sau nhiều năm vắng bóng.

Tương tự, Tây Ban Nha và Achentina có tỉ lệ người năng đi lễ tăng 12%...

Rất nhiều trẻ sơ sinh được sinh ra tại Ý trong năm nay đã được đặt tên là Phanxicô, đây là cái tên được chọn lựa nhiều nhất trong năm 2013.

Vị Giáo hoàng nổi tiếng cũng đã được đưa vào bảo tàng sáp ở Roma, và dưới dạng tượng trang trí máng cỏ Giáng sinh trong các hang đá Ý.

ĐGH. Phanxicô phục vụ trong khiêm tốn

Một huyền thoại đã được hình thành, nhưng người làm nên huyền thoại không hề quan tâm. Phát ngôn viên của ngài là Cha Lombardi khẳng định :

« Đức Giáo hoàng Phanxicô không tìm kiếm sự nổi danh cũng như thành công. Ngài chỉ thực hiện nhiệm vụ loan báo Tin mừng Phúc âm, để bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với mọi người trên Trái đất ».

Thụy My
Trích Báo PATER tháng 1/2014 của gpkontum.
http://giaophankontum.com/Tin-Tuc-1009_Pater-Thang-01-Nam-2014.aspx

Thứ Bảy, 25 tháng 1, 2014

Một người trí thức VN nhập đạo nói về cảm nghiệm "Đi tìm Giáo Hội"


1/12/2014 10:22:10 AMNhiều người thích đọc lời mô tả hết sức cổ điển về Giáo Hội trong cuốn tiểu thuyết của Myles Connolly, viết năm 1951, đã hơn 60 năm qua, tựa là Dan England and the Noonday Devil. Lời mô tả này nhắc ta nhớ rằng Giáo Hội không phải là một định chế mà là một Thân Thể, là Chúa Kitô. Xin nhường lời cho Myles Connolly:
Với tôi, Giáo Hội là tất cả những điều quan trọng ở khắp mọi nơi. Giáo Hội là thẩm quyền và hướng dẫn. Giáo Hội là hy vọng và bảo đảm. Giáo Hội là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Giáo Hội là Đức Bà và Thánh Giuse. Giáo Hội là Thánh Phêrô và Đức Piô XII. Giáo Hội là giám mục và cha xứ. Giáo Hội là giáo lý và là mẹ đang cúi xuống nôi dạy ta đọc kinh tối. Giáo Hội là nhà thờ chính tòa thành Chartres và là túp lều với thánh giá trên nóc ở Ulithi. Giáo Hội là các tử đạo tại Colosseum và các tử đạo tại Uganda, các tử đạo tại Tyburn và các tử đạo tại Nagasaki. Giáo Hội là vị nữ tu già và cô dự tu mắt đầy tha thiết. Giáo Hội là gương mặt rạng rỡ của vị tân linh mục dâng thánh lễ mở tay, và là cậu bé giúp lễ ngái ngủ để lộ đôi giầy trắng chơi quần vợt đã cũ mèm dưới chiếc áo giúp lễ đen… 

Giáo Hội là đỉnh tháp nhọn thoáng thấy từ cửa sổ xe lửa và là nhà thờ thu nhỏ hình thánh giá nhìn xa từ trên cao máy bay nhìn xuống. Giáo Hội là Thánh Lễ 6 giờ sáng với một nhúm thánh nhân vô danh tại chấn song rước lễ trong bóng tối mờ nhạt và là Thánh Lễ đại trào với đám đông vĩ đại và vẻ huy hoàng sáng lạn tại Nhà Thờ Thánh Phêrô… Giáo Hội là Ca Đoàn Nhà Nguyện Sistine và là đoàn rước kiệu Tháng Năm của trẻ em Trung Quốc miệng hát Lạy Nữ Vương Thiên Đàng ở Bắc Kinh. 

Giáo Hội là tu sĩ Carthusian trẻ trung tại Monte Allegro và là tu sĩ Dòng Tên đang dạy nhận thức luận ở Tokyo. Giáo Hội là linh mục gốc Scheutveld của Bỉ đang chiến đấu chống bệnh ngủ tại Congo và là tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế đang tranh đấu chống thành kiến tại Vermont. Giáo Hội là tu sĩ Biển Đức, Augustinh, Thương Khó, Đa Minh, Phanxicô. Giáo Hội là mọi tu sĩ và đặc biệt Dòng Các Cha Xứ vĩ đại nhưng vô danh.

Giáo Hội là Nữ Tu Cát Minh đang đốt những ngọn nến cho buổi kinh chiều trong cái giá lạnh thê lương của Iceland và là Nữ Tu Đức Bà Namur đang may những chiếc khăn trùm Rước Lễ Lần Đầu tại Kwango. Giáo Hội là Nữ Tu Vincentian đang chăm sóc một người Da Đen Baptist sắp chết vì ung thư tại Alabama và là Nữ Tu Maryknoll đang đối diện với một ủy viên Cộng Sản tại Manchuria. Giáo Hội là Nữ Tu Dòng Trắng đang dạy những người Ả Rập nghề làm thảm tại Sahara và là Nữ Tu Chúa Chiên Lành tại St Louis đang cung cấp nơi ẩn náu cho một đứa trẻ bị bỏ rơi, một mái ấm cho con chiên lạc. Giáo Hội là Nữ Tiểu Muội của Người Nghèo đang thoa thuốc mỡ cho những vết lở loét của một ông già bị bỏ rơi ở Marseilles, là Nữ Tu Áo Xám đang phục vụ những người cùng khốn tại Haiti, là Nữ Tu Thánh Thể đang giúp một thanh niên Da Đen làm thơ tại New Orleans. Giáo Hội là Nữ Tu Bác Ái… Giáo Hội là tất cả các Nữ Tu khắp nơi. 

Giáo Hội là người đàn bà nhăn nheo đang giữ cho tươi mát những bó hoa trước bàn thờ Đức Mẹ và là người nữ giáo lý viên trẻ đang dạy các tân tòng đi chân đất tại những đồi núi xa xôi. Giáo Hội là thiếu nữ đang từ bỏ cuộc chơi bài để lái các Nữ Tu tới trại giam và nhà người nghèo, và là người đàn bà tới từng cửa xin giúp đỡ các trẻ mồ côi. Giáo Hội là bà mẹ hãnh diện của vị linh mục và là bà mẹ đứt ruột đứt gan của tội nhân. Giáo Hội là tất cả các bà mẹ và bà chị bà em đang khóc, đang đau, và đang cầu nguyện để những người con trai,người anh, người em trai duy trì được đức tin.

….Giáo Hội là những bài giảng xấu và những bài giảng tốt, những ơn gọi giả và những ơn gọi thật. Giáo Hội là người thanh niên cao lớn đi Đàng Thánh Giá mỗi chiều và là người cha của mười đứa con đang đẩy xe đưa đứa con bệnh đi Lễ sáng Chúa Nhật tại Bệnh Viện Quận.

Giáo Hội là Thánh Martin và Thánh Martin de Porrès, Thánh Augustinô và Thánh Phocas, Thánh Grêgôriô Cả và Thánh Grêgôriô Thaumaturgus, Thánh Ambrôsiô và Charles de Foucault, Thánh Inhaxiô Tử Đạo, Thánh Thomas More và Thánh Barnaba. Giáo Hội là Thánh Têrêxa và Thánh Philomena, Gioan thành Arc và Thánh Winefride, Thánh Annê và Thánh Maria Euphrasia. Giáo Hội là mọi các thánh, xưa và nay, được nêu danh và không được nêu danh, và mọi kẻ tội lỗi.

Giáo Hội là tiếng bật ca Sáng Danh vào Thứ Bẩy Tuần Thánh và là hang đá tù mù trong Thánh Lễ hừng đông vào Lễ Giáng Sinh. Giáo Hội là phẩm phục mầu hồng của Chúa Nhật Laetare (Hãy Vui Lên) và là chiếc áo khoác làm việc mầu lam của linh mục đang làm việc với các lao công tại một hầm mỏ ở vùng Ruhr. 

Giáo Hội là những đôi giầy mới bóng loáng và các khuôn mặt đầy tôn kính của cô dâu và chú rể Tháng Sáu đang qùy trước bàn thờ phủ hoa trắng trong Thánh Lễ Hôn Phối, và là người mẹ trẻ tái nhợt, bối rối tại giếng rửa tội, vì niềm vui của bà trộn lẫn với nỗi lo âu khi thấy đứa con đầu lòng khóc lời phản đối nước rửa tội. Giáo Hội là hàng nối đuôi dài, mờ ảo, nhấp nhô các hối nhân đang đứng chờ ngoài tòa giải tội lúc chạng vạng của một buổi chiều mùa đông, mỗi người đều cách biệt và cô đơn một cách long trọng với các tội lỗi của riêng mình, và là hình ảnh đang khom lưng của một linh mục in bóng lên các chiếc đèn chiếu của xe cảnh sát trên xa lộ tối đen khi ngài đọc những lời kinh cuối cùng trên thân xác tan nát đang nằm trên vỉa hè bên cạnh chiếc xe bẹp dúm. 

Giáo Hội là Kinh Magnificat và là kinh tạ ơn đọc trước các bữa ăn. Giáo Hội là cuốn sách lễ nhầu nát và là bức tượng sứt mẻ của Thánh Antôn, là chiếc hộp thu tiền cho người nghèo và là chiếc chuông nhà thờ đã nứt nẻ. Giáo Hội là Chiếc Cửa qua đó tôi bước vào đức tin và là Chiếc Cửa qua đó, nếu Chúa muốn, tôi sẽ ra đi về miền vĩnh cửu. 

Chổi cùn, bút lông vô giá trị

Giáo Hội quả là các thánh và những người tội lỗi. Năm 1986, tại Đà Lạt Việt Nam, một người trở lại Đạo Công Giáo năm 1949 lúc Việt Nam đang cựa mình thật mạnh trong giấc mơ độc lập của mình, cũng có cùng một ý nghĩ ấy về Giáo Hội. Đó là ông Nguyễn Khắc Dương, cựu quyền khoa trưởng khoa văn Đại Học Đà Lạt, tác giả hồi ký Quia Dilexit Humilitatem Meam (Vì Người Thích Sự Khiêm Nhường Của Tôi). Bỏ ngoài các nhận định về chính trị, là những nhận định có thể gây tranh cãi, cuốn tự thuật này qúy giá ở chỗ cho ta cái nhìn rất trung thực của một người, sau khi đã trải qua nhiều kinh nghiệm tâm linh, cuối cùng đã chọn Thầy Giêsu làm lẽ sống trong lòng Giáo Hội.

Giáo sư Nguyễn Khắc Dương


Nguyễn Khắc Dương vốn là em ruột Nguyễn Khắc Viện, một trong các lý thuyết gia hàng đầu về văn hóa của Cộng Sản Bắc Việt, nên hồi nhỏ, đương nhiên không thích Đạo Công Giáo. Cũng như nhiều người khác, cậu tin rằng Đạo này có trách nhiệm dẫn đường cho Pháp cướp nước ta. Đạo này còn là “tà đạo” dạy những điều mê tín dị đoan, có những lễ nghi kỳ quặc… Người Công Giáo lại “cứ quây quần trong mấy xứ đạo như tách rời khỏi cộng đồng dân tộc, do mấy cố đạo chỉ huy, gây ấn tượng làm sao ấy! Thấy người Công Giáo ra vào lui lủi nơi các toà giải tội, lên “lè lưỡi” rước lễ, rồi trở về mắt nhắm tay chắp gối quỳ - thật là không tài nào chịu nổi! Và nhìn người Công Giáo nào cũng có vẻ như bị “bùa mê”, như “mê” một cái gì đó, bị một ma lực nào quyến rũ, ám ảnh, mê hoặc (possédé, envouté)! Cho nên, chúng tôi - con nhà khoa bảng, học thức - hơi có vẻ khinh đạo Công Giáo, cho như là một hình thức quyến rũ, mua chuộc, mê lú, mà các cố đạo đã đánh bả cho một lớp người hạ lưu trong xã hội! Trong họ vừa có cái gì dễ ghét, vừa có cái gì đáng tội nghiệp như là những người bị mê hoặc”. 


Trường Tư Thục Công giáo Thiên Hữu ( Providence), Huế


Nhưng cậu ấm con quan này thi hỏng chương trình Việt vì môn chính tả, nên bà mẹ gửi vào Huế học chương trình Pháp không có môn chính tả tại tư thục Công Giáo Thiên Hựu. “Vào học trường Thiên Hựu, tôi được dấn bước vào thế giới Công Giáo, mà dần dần khám phá ra những giá trị của nó”. Trước hết là sự tận tâm chức nghiệp của các linh mục giáo sư. “Điều thứ hai là ‘tình yêu người’ được bộc lộ ra qua cách đối xử”. Theo Nguyễn Khắc Dương, yêu khác thương. Khổng Giáo và Phật Giáo đều dạy thương người, thậm chí thương cả vạn vật nữa, “nhưng ‘yêu’ người thì hình như chỉ có đạo Kitô mới dạy và mới giúp người ta thực hiện được”. Vì yêu là xem người yêu như “một giá trị duy nhất vô nhị và không thể thay thế… và như thế là mình được nhìn nhận đúng phẩm giá làm người của mình, như là một ngã vị, một chủ thể duy nhất, như là được lên ngôi”. Yêu không hẳn là một đức hạnh (vertu) mà là một tác phong (comportement) “bắt nguồn từ một cảm thức dựa trên căn bản một nhận thức nào đó về giá trị con người”.

Nguyễn Khắc Dương cho rằng vị thượng tọa cậu quen biết, về mặt luân lý, “có lẽ ít linh mục Công Giáo nào sánh kịp”, có thể “liều chết cứu tôi, nhưng động thái (comportement) của ngài có cái gì lạnh nhạt. Tôi có cảm tưởng dù thương tôi hết sức, nhưng ngài thương tôi trong cái đại từ bi vô ngã đối với một chúng sinh vô ngã như bất cứ chúng sinh nào! Và tôi xin vô lễ (vì tôi rất kính mến ngài) mà cả gan suy diễn rằng có lẽ ngài xót thương cho cái chấp ngã hiện hữu của tôi, thay vì vui mừng vì hiện hữu của tôi như một ‘ngã vị’. Và xin thú thật rằng: tôi rất tôn kính Đức Thích Ca, nhưng mỗi lần chiêm ngưỡng tượng Ngài điềm nhiên trên toà sen, tôi vẫn có cảm tưởng như vậy. Tôi được chiếu rọi bởi ánh từ bi của Ngài, nhưng không có cảm tưởng được sưởi ấm cõi lòng bởi lửa yêu mến của Ngài”. 

“Sau này tôi mới hiểu rằng cái ấn tượng người Công Giáo như bị “bùa mê thuốc lú”, bị “thần ám” (possédé), bị “huyễn hoặc” (envouté) không phải là không có lý do! Bởi vì trong căn bản, người Công Giáo là kẻ có cảm thức được yêu bởi Thiên Chúa, được yêu một cách khủng khiếp (được yêu mà cũng có thể nói là bị yêu, vì tình yêu nào cũng có tính cách ràng buộc: nợ tình) và được mời gọi đáp lại tình yêu như vậy. Có cái gì như kẻ si tình, chứ không phải bậc Đại Giác, Đại Ngộ như Phật dạy. Si ở đây bắt nguồn từ sự điên rồ của màu nhiệm Khổ giá (la folie de la croix); và như chữ Thương khó, khổ nạn (passion) không phải không có âm hưởng của cái gì như là đam mê (cũng là passion). Sự so sánh các thánh Kitô giáo với các thiền sư, đạo gia, thì một bên có cái gì da diết, đầy đam mê (passion), một bên thì thanh thản, đầy minh triết (sagesse)”. 

Rồi nhờ học giáo lý, Nguyễn Khắc Dương khám phá ra Chúa Giêsu. “Cuộc đời của Đức Giêsu trước hết gợi lên lòng thương của tôi đối với một người vô tội bị oan khiên, sau là sự hấp dẫn của một người dịu dàng, đơn sơ, bình dị. Có thể nói tình cảm đầu tiên đối với Ngài là lòng thương mến (có pha trộn một chút tội nghiệp nào đó) hơn là lòng tôn kính đối với một bậc tôn sư: có một cái gì như tình bạn ít nhiều bình đẳng giữa hai người cùng hội cùng thuyền. Ấn tượng đầu tiên đối với Ngài có cái gì tương tự như sự an ủi của mẹ hiền, bạn quí, hàn gắn thương đau, khuyết điểm, khuyến khích về mặt cảm tính khi chán nản; sưởi ấm cõi lòng khi cô đơn - nhiều hơn là một vị tôn sư dạy một giáo thuyết”. 

Cậu cho rằng “sự hấp dẫn của chúa Giêsu hình như do chính con người và cuộc đời của Ngài từ việc sinh ra trong máng cỏ, qua 30 năm âm thầm lặng lẽ, ba năm nay đây mai đó, trà trộn với dân chúng, rồi bị giết oan, nhiều hơn là do đạo lý Ngài truyền dạy. Bởi vì, xét về mặt tâm lý đạo đức thì các bài dạy của Ngài cũng chẳng có gì là cao siêu tuyệt vời, nhưng điều làm cho tôi cảm mến Ngài chính là “con người” và “cuộc sống” (gồm cả cái chết của Ngài): sa “personne” et sa “vie”. Đã có cảm tình với Ngài rồi thì khó quên, khó phai và hình như càng lâu càng thắm thiết hơn… Đối với các bậc thánh hiền khác, thì có thể nhớ bài dạy của Ngài mà quên đi con người và cuộc đời của các ngài. Đối với Đức Giêsu thì khác hẳn: đôi khi quên lời Người dạy, nhưng chính Ngài thì không quên được. Và có lẽ càng hay sống trái lời Ngài dạy, thì hình ảnh Ngài lại càng thêm xoáy vào tâm khảm… nhớ quay nhớ quắt, nhớ quằn quại đến độ không chịu được!... Thông minh, tài trí, dũng cảm... Có lẽ nhiều người hơn Giêsu, nhưng đáng yêu nhất thì có thể chỉ có duy nhất một mình Ngài mà thôi!” 

Rồi cậu “gặp Pascal”, một thiên tài “cuối cùng đã vất bỏ tất cả để sống một cuộc đời cống hiến cho Chúa Giêsu! Vì sao? Vì Pascal đã cảm nghiệm được rằng Giêsu đã yêu Pascal đến chết, Giêsu đã nhỏ những giọt máu cho Pascal. Và Pascal đã nhìn nhận Giêsu là Thiên Chúa”




Nhưng hình như Đấng Giêsu này đã bị Giáo Hội do Người sáng lập, ít nhất là cái Giáo Hội trước mắt Nguyễn Khắc Dương, tức Giáo Hội Việt Nam đang ở lúc trưởng thành, phản bội. Vì cái Giáo Hội này đã biến “con chiên bổn đạo” thành “một đàn cừu của Panurge!”: khúm núm, khép nép, cúi đầu “trước một ông Trời làm chúa tể qua trung gian mấy cha cố”, nhất là các cha cố Tây. Cậu cho rằng “Tin vui cứu chuộc của Giêsu đã bị Giáo Hội biến thành một thứ bùa mê để thao túng, cầm buộc con người trong một xiềng xích tinh thần, làm cho con người trở nên ngoan ngoãn, hiền lành, dễ bảo, dễ trị; nhưng thiếu khí phách, thiếu tự do phóng khoáng - cởi mở - tiến bộ: một dạng “ngu dân” nào đó!”. Trái ngược “với Giêsu Na-da-rét là người đã có ý muốn nâng cấp cứu vớt con người, nhất là lớp người thấp hèn, khốn khổ. Tôi hình như mang máng có ý nghĩ là giáo quyền đã phản ngược lại lý tưởng của Giêsu Na-da-rét”. 

Nhưng biến cố 1945 đã quét sạch “cái hình ảnh Hội Thánh gắn liền với quyền bính… Cái vỏ ‘cố Tây’ được bóc vất đi để lộ nguyên hình là các vị ‘thừa sai’ của Chúa Kitô, mà đã có thời tỏ rạng qua dáng dấp của chân phước Théophane Vénard”. Hình ảnh vị “Giám Mục Việt Nam tiên khởi địa phận Vinh lúc ra Thanh Hóa thụ phong Giám Mục, được gánh đi lủi thủi không tiền hô hậu ủng, không kèn, không trống âm thầm lặng lẽ phục xuống trước bàn thờ, như bị đè bẹp dưới cuốn Kinh Thánh đặt trên mình, đã xóa nhòa hình ảnh các vị Giám Mục áo Vàng áo Tím, oai vệ ngồi trên khán đài danh dự cạnh quan Khâm quan sứ trong các buổi duyệt binh vào dịp lễ Quốc khánh của nước Bảo Hộ Đại Pháp trước 1945”. 


GX. Nguyễn Khắc Dương

Nguyễn Khắc Dương cho rằng năm 1945 “quả là Năm Đại Hồng Phúc đối với riêng tôi” làm thay đổi hẳn tương quan của cậu đối với Giáo Hội. Từ từ, cậu nhận ra “trong một môi trường chịu ảnh hưởng của Chúa Giêsu Na-da-rét, tương quan liên-ngã-vị (relation intersubjective, interpersonnelle) cũng đậm đà hơn. Một gia đình, một họ đạo, một cơ sở Kitô giáo nào cũng mang màu sắc ấy (dù trình độ văn hóa và kể cả trình độ đạo đức cá nhân có thể là thấp)”. Bầu không khí của cộng đoàn Công Giáo luôn “có cái gì thân hữu, đầm ấm”. Dù có thể lắm lúc xảy ra cãi cọ tranh chấp, “nhưng vẫn là có nhau - nghĩa là dù tốt hay xấu đều có nhau, đều có tương quan liên- ngã-vị, hữu ngã và hữu tha trong cái với nhau”. Cậu cho rằng “cái tương quan liên-ngã-vị quan trọng như vậy là vì từ trong nguồn gốc của mỗi hữu thể, tức là trong Mầu Nhiệm Thiên Chúa tương quan lập hữu giữa Ba Ngôi (Cha, Con và Thần Khí) không phải là một tùy thể thêm vào một hữu thể nòng cốt; nhưng chính là “bản tính” của hữu thể. Nơi con người cái tương quan là cha, là con, là thầy, là trò chỉ là một chuyện phụ thuộc, có vất bỏ đi vẫn còn có con người. Còn nơi Thiên Chúa: Chúa Cha chỉ là Cha thôi, nếu không là Cha thì không còn gì nữa, cho nên chính cái tương quan ấy (Cha, Con, Thần Khí...) là bản tính của Hữu thể”. 

Từ đó, cậu luôn tìm về với một gia đình, một cộng đoàn Công Giáo để tìm ra cái tương quan liên ngã vị này. Rất may, sau khi đậu tú tài 2 năm 1946, cậu có dịp được dạy Việt Văn tại Trung Học Đậu Quang Lĩnh tại Vinh. “Được trở về sống trong cái khí quyển mà tôi đã hấp thụ sáu năm tại trường Thiên Hựu, tôi như một ngọn cây đang bị héo rũ, bỗng được tưới mát hồi sinh… Dần dần, tôi mới khám phá ra rằng chỉ có môi trường Công Giáo mới hợp với con người tôi, và có lẽ tôi chỉ sống được trong môi trường ấy mà thôi”. Vì sau Cách Mạng Tháng Tám, chỉ “tại các xóm đạo, trong các gia đình Công Giáo thì tôi cảm thấy như sinh khí vẫn dồi dào, tương quan vẫn có cái gì đằm thắm sâu xa mật thiết, đầy sinh khí tuy có vẻ thầm lặng kín đáo nhưng vẫn vui tươi ấm áp. Nhất là những giờ kinh sáng tối trong gia đình hoặc tại nhà thờ tuy chưa có đức tin tôi vẫn cảm thấy như mình là cây được cắm vào lòng đất có nhựa sống, được bao bọc và sưởi ấm bởi tình người trong tương quan liên-ngã-vị. Có lẽ tôi đã cảm nghiệm mầu nhiệm các Thánh thông công trong sinh hoạt của Hội Thánh Công Giáo trước rồi sau mới phát giác ra rằng: mối dây của sự thông công ấy là Chúa Giêsu mà ngôi thánh đường có nhà tạm, nơi Chúa ngự, có đèn thắp sáng là trung tâm và vị linh mục, Giám mục là đại diện và thừa tác viên... Mỗi giáo xứ, mỗi Cộng đoàn Công Giáo quả là một gia đình! Bếp lửa, mỗi tổ ấm ấm cúng, có lò lửa sưởi ấm là Chúa Giêsu, mà Thánh Thể là bí tích về sự hiện diện, tuy vô hình nhưng thực sự của Ngài, vị tư tế là đại diện và thừa tác viên, các tín hữu là anh chị em, là con chung của Cha trên trời. Và trong tổ ấm ấy, đời sống cộng đoàn (communauté) chứ không phải tập thể (collectivité) vẫn không làm giảm tương quan liên-ngã-vị cá thể: vì mọi tín hữu đều có tương quan riêng duy nhất, trực tiếp với Chúa Giêsu trong một sự kín nhiệm mà không một người thứ ba nào có quyền xâm lược bằng bạo lực hay âm mưu xảo trá”. 

Ngoài ra, “tôi nghĩ rằng vấn đề căng thẳng giữa cá nhân và đoàn thể, chỉ có cộng đoàn Công Giáo là giải quyết tuyệt vời. Sau này tôi mới biết rằng là nhờ phạm trù nhiệm thể và chi thể Đức Kitô mà vấn đề được giải quyết mỹ mãn đến mức độ tối đa… Hầu như tổng hợp rất nhuần nhuyễn tính cách quân chủ và dân chủ”. 

Tuy nhiên, nếu chỉ xét ở bình diện con người, thì người và cộng đoàn Công Giáo Việt Nam chỉ mới ở mức độ rất bình thường, đôi khi còn kém thua người khác. Nói chung, họ thiếu khí phách hiên ngang so với mẫu người Nho Giáo. Nhưng “điều đáng lưu ý nhất nơi những cá nhân và Cộng đoàn Công Giáo nằm ở chỗ họ đang làm chứng một cách nào đó về một cái gì rất kỳ lạ, nói đúng hơn, về một con người: Đức Giêsu người Na-da-rét, còn gọi là Đức Kitô… Thực ra từ bản chất, không phải chính họ chủ động trong sự làm chứng ấy bằng nỗ lực nêu gương sáng, nhưng chính là Đức Kitô đã dùng họ mà tỏ mình ra cho dù họ là những người rất tầm thường, và đôi khi còn tệ hơn nữa là khác! Nói theo tiếng chuyên môn thần học, người Công Giáo cá nhân cũng như tập thể, đều là 'bí quyết của Đức Kitô', là sự hiện diện và tác động của Đức Kitô trong hiện tại và ở nơi này (hic et nunc) chứ không phải họ chỉ loan truyền một tin vui xảy ra trong quá khứ cách 2000 năm về trước ở Thánh Địa xa xôi. Họ gần như là bí tích Thánh Thể vậy! Cũng như lúa mì thuộc hạng tốt hay xấu vậy, bột mì dùng làm bánh Thánh có loại thơm loại không thơm, loại thô, loại mịn, loại trắng, loại hẩm, nhưng khi đã được vị tư tế đọc lời truyền phép dưới tác động của Chúa Thánh Thần đều trở nên Thánh Thể cả, cũng đều có Chúa Kitô hiện diện thực sự…” 

Giáo Hội, vì thế, theo Nguyễn Khắc Dương “chỉ là chứng tích và là dấu chỉ” qua đó, cậu “tiếp cận được với một người đang hiện diện và tác động ‘hic et nunc’: Đức Giêsu Kitô”. Cái Giáo Hội này cũng có nhiều nét tiêu cực, không hẳn “đạo đức tài trí vượt bực! Thế nhưng, cái Giáo Hội này đã "giúp tôi thấy sự hiện diện và tác động của Đức Kitô gần như là còn sống, sống giữa, sống trong Hội Thánh ấy! Và tôi thấy rằng những sai lầm thiếu sót của Hội Thánh, của các Giáo Hoàng, Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ, Giáo dân suốt 2000 năm lịch sử Tây Phương và gần 100 năm chủ nghĩa thực dân, những sai lầm thiếu sót mà trước đó đã làm cho tôi nghĩ rằng Hội Thánh đã phản ngược lại lý tưởng nguyên thủy của đạo Tin Mừng, thì nay tôi bỗng nhận thấy rằng: Hội Thánh Công Giáo không phải là một cộng đoàn lý tưởng gồm những kẻ tài cao đức trọng, đã thể hiện được một đạo sống theo một giáo thuyết cao siêu thâm thúy gì cả! Hội thánh chỉ là một số người đủ loại, y như số người hành khất tật nguyền dơ bẩn lê lết bên vệ đường, bỗng được gọi vào dự tiệc cưới mà Chúa Giêsu có nhắc đến trong bài dụ ngôn mô tả Nước Trời. Họ được Ngài gọi, được Ngài chọn để sai đi làm chứng và mang sự hiện diện tác động của Ngài theo họ, tất cả do Ngài chứ không phải do giá trị cá nhân của họ gì cả. Borgia đã làm Giáo Hoàng, Richelieu làm Hồng Y. Cauchon làm Giám mục thì nếu có một ông Linh mục Tây nào đó, có thể đã nộp một Linh mục Việt Nam tham gia cách mạng cho mật thám Pháp, thì cũng thường tình. Ở thế kỷ thứ 19, một người Tây Âu mà không có óc thực dân thì phải là bậc Đại Trí, Đại Thánh! Người mà Đức Giêsu chọn là bọn thu thuế sài lang, có khi là đĩ điếm, trộm cướp còn đầy thành kiến, ganh tị, nhỏ nhen, ngớ ngẩn, sai lầm đủ thứ… Thế nhưng, tất cả chỉ làm một việc này: làm chứng về Đức Giêsu, làm cho người ta thấy Đức Giêsu hiện diện và tác động qua họ. Các môn đệ của Đức Giêsu như lời Bernadette ở Lộ Đức “đều là cái chổi cùn Chúa muốn dùng, dùng xong thì xếp xó” hay như chính Tê-rê-sa Hài Đồng nói: “tất cả đều là ngọn bút lông vô giá trị trong tay một nghệ sĩ tài tình!” Và như vậy thì nói hơi quá cho dễ hiểu: chổi càng cùn, bút lông càng xoàng lại càng chứng tỏ có sự hiện diện và tác động của Chúa. Hội thánh Công Giáo không những với tất cả những gì là nhân loại tính tầm thường (lắm lúc còn ghê rợn: như các giàn hỏa thiêu) của nó mà đôi khi xét trên một phương diện nào đó, chính nhờ sự tầm thường ấy mà nó là dấu chỉ, làm chứng cho sự hiện diện và tác động của Chúa Giêsu. Alexandre, César, Hán Cao Tổ, Thành Cát Tư Hãn, Napoléon… các thánh nhân và hiền triết dù vĩ đại đến đâu, đều là những người đã chết; còn Giêsu người Na-da-rét thì đang sống vì đang hiện diện và tác động. Hội thánh Công Giáo cũng chỉ là nhóm người đủ loại như bất cứ nhóm người nào, chỉ khác ở chỗ là cho thấy được Đức Giêsu đang còn sống, hoạt động giữa trần gian mọi ngày, mọi giây, mọi phút, ở mọi nơi và sẽ như vậy cho đến tận thế”. 

Nguyễn Khắc Dương xác tín rằng: không thể tách Giáo Hội khỏi Chúa Giêsu, như tách rời một tổ chức với người sáng lập ra nó. Vì “không có Thầy các con chẳng làm nên trò trống gì”.



Vũ Văn An

Thứ Ba, 21 tháng 1, 2014

Ủy ban quốc tế của Tòa Thánh hoàn tất cuộc điều tra các sự kiện tại Medjugorje

1/20/2014 10:10:09 AMHôm thứ Bẩy 18 tháng Giêng, Giám đốc Văn phòng Báo chí Tòa Thánh là cha Federico Lombardi, cho biết ủy ban quốc tế điều tra các sự kiện tại Medjugorje đã tổ chức cuộc họp cuối cùng vào ngày 17 tháng Giêng. Ủy ban đã được Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin hình thành và do Đức Hồng Y Camillo Ruini lãnh đạo.
Medjugorje.jpg

Ủy ban đã báo cáo hoàn thành công việc của mình và sẽ trình kết quả nghiên cứu của mình cho Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin. 

Medjugorje nằm trong khu vực Herzegovina ở phía Tây của nước Bosnia và Herzegovina, cách thị trấn Mostar 25km về phiá Tây Nam và gần với biên giới Crotia. Medjugorje theo tiếng điạ phương có nghĩa là “giữa những đồi núi”. Thật vậy, địa điểm này ở cao độ 200m so với mặt biển với khí hậu mát mẻ miền Điạ Trung Hải.

Sáu thanh niên, thiếu nữ nói đã thấy Đức Mẹ hiện ra tại Medjugorje vào ngày 24/06/1981. Từ đó dòng người lũ lượt đến hành hương địa điểm này để cầu nguyện với Đức Mẹ dưới hai tước hiệu là “Đức Mẹ Medjugorje” hay “Đức Mẹ là Nữ Vương Hòa Bình”.

Trước những biến cố cho rằng đã thấy những thị kiến riêng, Giáo Hội luôn có những cuộc điều tra để có thể kết luận là “constat de supernaturalitate” – tính chất siêu nhiên được chứng thực hay “non constat de supernaturalitate” – tính chất không siêu nhiên được chứng thực – nói dễ hiểu là do người ta bày vẽ ra, không phải là thật.

Ngày 10 tháng Tư năm 1991, Hội Đồng Giám Mục Nam Tư đã đưa ra tại Zadar một tuyên bố nói rằng: “Hội Đồng không thể khẳng định rằng những sự kiện này có liên quan đến các cuộc hiện ra siêu nhiên và những mạc khải hay không”

Tiếp theo đó, ngày 02 Tháng 10 năm 1997 , Đức Giám Mục Ratko Peric của giáo phận Mostar-Duvno thông báo rằng: “Trên cơ sở nghiên cứu cẩn trọng về trường hợp này của 30 chuyên gia của chúng tôi, với kinh nghiệm 5 năm coi sóc Giáo Phận này, trước những bất tuân phục đầy tai tiếng xung quanh hiện tượng này, trước những điều dối trá mà đôi lúc được đặt vào miệng của Đức Mẹ, trước sự lặp đi lặp lại bất thường của những ‘thông điệp’ trong hơn 16 năm qua, trước những cách thế kỳ lạ mà các vị linh giám của những người tự xưng là đã thấy thị kiến đi cùng với họ khắp thế giới để tuyên truyền, trước cách thức mô tả ‘Đức Mẹ’ hiện ra với ‘những người đã thấy thị kiến’, xác tín của tôi và quan điểm của tôi về các cuộc hiện ra hay mạc khải tại Medjugorje không chỉ dừng ở điểm non constat de supernaturalitate [tính siêu nhiên không được chứng minh ] mà còn phải nói rõ là constat de non supernaturalitate [tính không siêu nhiên đã được chứng minh] " 

Trước tuyên bố phủ nhận của Đức Cha Ratko Peric, Đức Hồng Y Tarcisio Bertone, lúc bấy giờ là Tổng Giám Mục, thư ký của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, nói rằng những nhận xét của Đức Giám Mục Peric "cần được coi là biểu hiện của xác tín cá nhân của giám mục Mostar mà ngài có quyền bày tỏ trong tư cách là đấng bản quyền địa phương, nhưng đó vẫn chỉ là ý kiến cá nhân của ngài"

Trong lá thư ấy, Đức Tổng Giám mục Bertone cũng nhấn mạnh rằng "Tòa Thánh thường không đưa ra, ngay lập tức, quan điểm riêng của mình liên quan đến các hiện tượng được cho là siêu nhiên”. 

Thánh Bộ Giáo lý Đức tin ủng hộ sự thận trọng mà các Giám Mục Nam Tư đã tuyên bố vào năm 1991 tại Zadar: đó là "Trên cơ sở các cuộc điều tra được tiến hành đến thời điểm này, không thể khẳng định rằng đó là một trường hợp của một cuộc hiện ra hoặc của một mạc khải siêu nhiên" .

Vào tháng Hai năm 2008, Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin thông báo với cha Tomislav Vlasic, vị linh giám của sáu thanh niên, thiếu nữ rằng ngài đã bị điều tra vì sự loan truyền các giáo lý không minh bạch, thao túng lương tâm , sự bất tuân phục trước những yêu cầu chính đáng của đấng bản quyền hợp pháp, và ra lệnh cho ngài cư trú tại một tu viện dòng Phanxicô ở Lombardy, tham gia một khóa huấn luyện về thần học và tâm linh, và chấm dứt các liên hệ với nhóm “Nữ Vương Hòa Bình”. Tháng Bảy năm 2009, cha Vlasic, đã tự ý xin được huyền chức.

Ngày 17 tháng Ba năm 2010, Tòa Thánh công bố rằng, theo yêu cầu của các giám mục Bosnia và Herzegovina, Tòa Thánh đã thành lập một ủy ban, đứng đầu là Đức Hồng Y Camillo Ruini, lúc ấy là Giám Quản Rôma, để điều tra hiện tượng Medjugorje.

Đức Mẹ Mễ Du

Ngày 17 tháng Giêng 2014, ủy ban đã chính thức hoàn tất cuộc điều tra. Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin sẽ công bố kết luận chung cuộc về vấn đề này. “Constat de supernaturalitate” hay “non constat de supernaturalitate?” Khó có thể nói được. Tuy nhiên, diễn biến mới nhất sau có thể cho phép dự đoán phần nào:

Ngày 21 Tháng 10 năm 2013, Sứ thần Tòa Thánh tại Mỹ, thay mặt cho Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, cho biết là dưới ánh sáng của tuyên bố do các Đức Giám Mục Nam Tư đưa ra năm 1991 tại Zadar về các sự kiện tại Medjugorje, người Công Giáo, cho dù giáo sĩ hay giáo dân, "không được phép tham gia các cuộc họp, hội nghị, lễ kỷ niệm công cộng có thể bị lợi dụng để tăng sự khả tín cho ‘những cuộc hiện ra’ như thế”



Đặng Tự Do

Thứ Hai, 20 tháng 1, 2014

Lời cảnh tỉnh của Đức Giáo Hoàng vang dội Châu Á


1/20/2014 8:40:23 PMTất cả chúng ta có thể học hỏi từ lời khuyên của ngài dành cho các tân hồng y
pope-francis-and-cardinals.jpg
Assisi, October 4, 2013. (Gian Matteo Crocchioni/REUTERS)

Gần như ngay sau khi thông báo bổ nhiệm 19 vị tân hồng y, được biết rằng Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng đã viết cho họ một lá thư cảnh tỉnh.

Ngài viết: “Tước vị hồng y không có nghĩa là thăng chức. Cũng không phải là một vinh dự hay một sự tô điểm, đơn giản chỉ là một sự phục vụ mà đòi hỏi quý vị phải mở rộng tầm nhìn và trái tim của mình. ”

Sau các hội nghị nơi diễn ra sự kiện Vatican chính thức bổ nhiệm các tân hồng y thường đi kèm một loạt những hình thức mang tính xã giao và các bữa ăn tối. Nhưng bức thư của Đức Thánh Cha dường như đã siết chặt ngay từ đầu.

“Tôi yêu cầu quý vị, vui lòng đón nhận việc chỉ định này với một trái tim đơn giản và khiêm tốn. Và, trong khi quý vị phải làm như vậy với lòng vui thỏa và niềm hân hoan, chắc chắn rằng tình cảm này vượt xa khỏi bất cứ sự diễn tả nào của thế gian cũng như bất cứ nghi  thức nào đi ngược với tinh thần Tin Mừng là tinh thần khổ chế, tiết độ và nghèo khó. ”

Bức thư đặc biệt quan trọng đối với thách đố mà Giáo Hội tại Châu Á đang đối diện, nơi mà hệ thống phẩm trật đôi khi ăn sâu vào trong các bộ phận văn hóa địa phương. Với những phẩm trật đó dẫn đến một thái độ hoàn toàn trái ngược với những gì Giáo Hội đề ra tại Công Đồng Vatican II, một Giáo Hội mà Đức Giáo Hoàng hiện nay muốn khôi phục.

Công giáo được thêm phong phú khi các nền văn hóa khác hơn so với nền văn hóa Châu Âu mang lại ánh sáng tươi mới cho con người và sứ điệp của Chúa Giêsu cũng như ý nghĩa và việc cử hành các bí tích.

Nhưng đôi khi Giáo Hội phản ánh các khía cạnh của văn hóa địa phương mà thực sự là một trở ngại cho việc tiếp nhận Tin Mừng và việc lớn lên trong đức tin chân thực. Các thái độ gắn liền với địa vị cũng như các hoạt động của những người trong vị trí lãnh đạo có thể trở thành dấu hiệu phản chứng đối với đời sống và việc phục vụ mà Chúa Giêsu đã đề xướng.

Trong bức thư, mà ngài bắt đầu với lời chào đơn giản “Anh em thân mến” (không có tiêu đề hoặc hình thức ), Đức Thánh Cha tiếp tục tập trung không ngừng vào mô hình Giáo Hội mà ngài muốn thấy sự triển nở, nơi mà người nghèo có được đặc quyền và vai trò của các vị lãnh đạo trong Giáo Hội là như người phục vụ.

Đề cập đến việc bổ nhiệm như một “việc chỉ định “chứ không phải là một sự thăng cấp, như thường được thực hiện, cho thấy một sự khác biệt đáng kể. Đây là vị Giáo hoàng người đã khuyên bạn bè không đến dự lễ nhậm chức Giám Mục Rôma của mình và thay vào  dành tiền đi du lịch đó như một món quà cho người nghèo. Bây giờ ngài đang nói với các tân hồng y rằng những gì họ sẽ dấn thân vào là một sự phục vụ; một công việc khó khăn và đôi khi nặng nề.

Thực tế  là trở nên một hồng y chẳng hơn thêm gì hơn chức giám mục đã có. Trở nên một hồng y có nghĩa là người được chỉ định để gia nhập nhóm các trưởng lão của Giáo Hội Rôma. Trách nhiệm chính của họ là việc bầu cử vị lãnh đạo của Giáo Hội Rôma.

Tuy nhiên trong thực tế, việc chỉ định mà nhiều người thường nhìn nhận như một sự thăng chức, kèm theo một địa vị làm cho họ cách biệt. Và trong những năm gần đây một số vị đã nhấn mạnh sự cách biệt bằng những bộ phẩm phục họ mặc và tầm quan trọng trong chức vụ của họ mà họ nghĩ họ có.

Sự biểu hiện rõ ràng và lố bịch nhất của khía cạnh này trong quan điểm của một số hồng y về bản thân mình trở nên hiển nhiên khi họ mặc bộ phẩm phục Cappa Magna, một hình thức ăn mặc diễn tả chức vụ vốn đã bị Đức Giáo Hoàng Phaolô VI bãi bỏ chính thức vào những năm 1960, chỉ xuất hiện trở lại trong thập kỷ qua.

Điều đó được nhiều người mô tả như một hình ảnh thu nhỏ của “kiểu trang phục Công giáo,” giờ đây đã bị Đức Giáo Hoàng Phanxicô lên án trong lời nói và việc làm. Mặc dù tạp chí thời trang Esquire chọn ngài là người đàn ông mặc đẹp nhất năm 2013, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã cố tình ‘ăn mặc bình thường.’

Nhưng đó là một khía cạnh nhỏ của một vấn đề lớn mà Đức Giáo Hoàng đang tìm cách để đưa vào hàng giáo sĩ trên thế giới, mà ngài xem họ như là những người phục vụ cho dân chúng chứ không phải là tô vẻ cho chức vụ của mình.

Và trong lá thư đó, ngài không làm gì hơn là lặp lại giáo huấn của Công đồng Vatican II, Công đồng gọi Giáo Hội là Dân Thiên Chúa, không phải là một tổ chức gồm một lực lượng lao động các giáo sĩ và tu sĩ được coi như là một kiểu mẫu Công giáo cao hơn, người Công giáo tốt hơn hoặc thậm chí gần gũi với Thiên Chúa hơn.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô nêu cao gương khiêm hạ & phục vụ

Như Công Đồng Vatican II nhấn mạnh, các giáo sĩ và tu sĩ  là hoàn toàn để hỗ trợ cho những người đã được rửa tội, họ là những người lính tiền tuyến cho sứ mạng của Giáo Hội.

Thông điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô thì rất đơn giản nhưng cũng khó để sống: học những bài học khó này để chúng ta có thể chia sẻ sứ mạng của Chúa Giêsu như thế nào đòi hỏi sự kiên nhẫn, khiêm tốn và sẵn ang cho việc phục vụ tự hiến.

(Linh mục Michael Kelly, UCAN 20.01.2014)

Linh mục Michael Kelly là giám đốc điều hành của ucanews
http://conggiao.info/news/810/20952/loi-canh-tinh-cua-duc-giao-hoang-vang-doi-chau-a.aspx

Thứ Sáu, 17 tháng 1, 2014

Đức Thánh Cha tố giác những tư tế hư hỏng




VATICAN - Đức Thánh Cha tái lên tiếng tố giác những tư tế hư hỏng, thay vì trao bánh sự sống cho dân thánh của Chúa, thì lại cho những lương thực có thuốc độc!

ĐTC đưa ra nhận định trên đây trong bài giảng thánh lễ lúc 7 giờ sáng ngày 16-1-2014 tại nguyện đường Nhà khách Thánh Marta ở Vatican. Chú giải Bài đọc I trong ngày và Thánh vịnh đáp ca, kể lại sự thất trận của quân Israel trước quân Philitinh, ĐTC nhận xét rằng dân Chúa thời ấy đã bỏ Chúa. Lúc ấy Lời Chúa "khan hiếm", Tư tế Elia già nua thì "nguội lạnh" và các con cái của ông thì "hư hỏng, làm dân chúng kinh hoàng và hành hạ họ". Để chiến đấu chống quân Philitinh, dân Israel dùng "Hòm Bia Giao Ước" như một vật ma thuật, một điều bên ngoài. Và thế là họ bị thất trận, "Hòm Bia Giao Ước" bị địch quân chiếm, vì không có niềm tin đích thực nơi Thiên Chúa, nơi sự hiện diện thực sự của Ngài trong cuộc sống.

ĐTC nói: "Đoạn Kinh Thánh này làm cho chúng ta suy nghĩ xem mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa, với Lời Chúa như thế nào: phải chăng đó chỉ là một quan hệ hình thức, hời hợt, một quan hệ xa lạ? Lời Chúa có đi vào, có thay đổi tâm hồn chúng ta hay không, có quyền năng hay không? Nhưng tầm hồn lại khép kín đối với Lời Chúa. Điều này làm chúng ta nghĩ đến bao nhiêu thất bại trong Giáo Hội, bao nhiêu chiến bại của Dân Chúa chỉ vì họ không cảm thấy Chúa, không tìm Chúa, không để cho Chúa tìm họ! Và rồi sau khi thảm trạng xảy ra, người ta cầu nguyện: Lạy Chúa, làm sao điều ấy xảy ra được? Chúa đã làm cho chúng con bị các lân bang coi rẻ... Chúa biến chúng con thành sự nhạo cười của những dân quanh chúng con."

Đề cập đến những gương mù, những xì căng đan trong Giáo Hội, ĐTC đặt câu hỏi: "Chúng ta có xấu hổ không? Có bao nhiêu gương mù mà tôi không muốn nêu ở đây, nhưng tất cả chúng ta đều biết, chúng ta biết chúng ở đâu. Những xì căng đan mà một số người đã bắt phải trả bao nhiêu tiền... Thật là một ô nhục cho Giáo Hội. Chúng ta xấu hổ vì những xì căng đan, những chiến bại của các linh mục, giám mục, giáo dân? Lời Chúa trong những xì căng đan ấy thật là hiếm hoi! Họ không có tương quan với Thiên Chúa! Họ có một địa vị trong Giáo Hội, một địa vị quyền lực và thoải mái. Nhưng Lời Chúa thì họ không có. Họ biện minh: "Nhưng tôi có huy chương mà! Tôi có mang thánh giá mà!"... Đúng vậy, cũng như những người Israel xưa kia mang "Hòm Bia Giao Ước" nhưng họ không có mối quan hệ sinh động với Thiên Chúa và với Lời Chúa!

ĐTC nói tiếp: "Tôi nghĩ đến lời Chúa Giêsu nói về những kẻ gây gương mù gương xấu... và nơi đây xì căng đan đã xảy ra: tất cả sự sa đoạ của dân Chúa, cho đến sự yếu nhược, sự hư hỏng của các tư tế."



ĐTC kết luận bài giảng, nghĩ đến Dân Chúa: "Tội nghiệp dân! Tội nghiệp dân! Chúng ta không cho họ bánh sự sống để ăn; chúng ta không cho họ chân lý! Thậm chí chúng ta cho họ ăn bánh bị nhiễm độc, bao nhiêu lần!... Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta đừng bao giờ quên Lời Chúa, Lời hằng sống. Xin cho Lời Chúa đi vào tâm hồn chúng ta và không bao giờ quên dân thánh trung thành của Chúa, đang xin chúng ta bánh mạnh mẽ!" (SD 16-1-2014)
G. Trần Đức Anh OP
http://www.emty.org/ViewNewsDetail.aspx?tabid=56&NewsPK=15935


Nguồn: RV

Thứ Tư, 15 tháng 1, 2014

Đức Thánh Cha phê bình linh mục kinh tài, linh mục phô trương

1/11/2014 8:40:36 PMVATICAN. ĐTC Phanxicô phê bình những LM kinh tài, phô trương không có quan hệ chân thực với Chúa Giêsu.
santamartah.jpg  
Ngài đưa ra lời cảnh giác trên đây trong bài giảng thánh lễ sáng 11-1-2014, tại nguyện đường Nhà Trọ thánh Marta ở nội thành Vatican. Đồng tế với ĐTC có ĐHY Angelo Bagnasco, TGM Genova, chủ tịch HĐGM Italia, và một nhóm LM thuộc quyền, trước sự tham dự của một số giáo dân.

Trong bài giảng, ĐTC diễn giải bài đọc thư nhứ I của thánh Gioan Tông Đồ và nói về quan hệ của linh mục với Chúa Giêsu. Ngài nói: ”Linh mục chân chính là người được Thiên Chúa xức dầu để phục vụ Dân Chúa, LM có quan hệ mật thiết với Chúa Giêsu: khi thiếu quan hệ này, thì LM trở thành người không còn được xức dầu nữa, thành người thờ ngẫu tượng, thờ thần là cái tôi của mình.”


ĐTC cũng nhận xét rằng khi tiếng tăm của Chúa Giêsu gia tăng nơi dân chúng, thì Chúa rút lui vào nơi hoang vắng để cầu nguyện. Điều này chính là viên đá để so sánh, để kiểm chứng các LM chúng ta xem chúng ta có đi tìm Chúa Giêsu hay không? đâu là chỗ của Chúa Giêsu Kitô trong đời linh mục của tôi? Phải chăng đó là một quan hệ giữa trò và Thầy, giữa em với anh, giữa một người nghèo hèn với Thiên Chúa, hay chỉ là một quan hệ hời hợt.. không đến từ con tim?”

ĐTC nhấn mạnh rằng: ”Những linh mục không còn được xức dầu nữa, LM giải dầu (unto), thì họ gây hại dường nào cho Giáo Hội! Những linh mục như thế đặt sức mạnh của họ nơi những điều hời hợt, trong sự háo danh... Bao nhiêu lần ta đau lòng khi nghe nói: Kìa, đó là một linh mục huênh hoang, một linh mục không có quan hệ với Chúa Giêsu! Một linh mục đã đánh mất sự xức dầu”.

ĐTC nói thêm rằng: ”Các linh mục chúng ta có nhiều khuyết điểm, tất chúng ta là người tội lỗi. Nhưng nếu chúng ta đến cùng Chúa Giêsu Kitô, nếu chúng ta tìm Chúa trong kinh nguyện - kinh nguyện chuyển cầu, kinh nguyện thờ lạy - thì chúng ta là linh mục tốt, mặc dù chúng ta là người tội lỗi. Nhưng nếu chúng ta xa Chúa Giêsu, chúng ta phải tìm bù trừ tình trạng này bằng những thái độ .. phàm tục khác. Và như thế có những thứ linh mục áp-phe, linh mục doanh nhân.. Nhưng linh mục thờ lạy Chúa Giêsu, linh mục nói với Chúa Giêsu Kitô, linh mục tìm Chúa và để cho Chúa tìm kiếm: đó chính là trung tâm đời sống chúng ta. Nếu không được như thế, thì chúng ta mất hết! Chúng sẽ nói gì với dân chúng?”

”Ước gì quan hệ của chúng ta với Chúa Giêsu Kitô, quan hệ của những người được xức dầu với dân Chúa, ngày càng tăng trưởng nơi các linh mục chúng ta” 



”Thật là đẹp khi thấy những linh mục hiến mang sống mình như linh mục, và dân chúng nói về các linh mục ấy: ”Cha này, cha kia khó tính, nhưng đó là một linh mục! Dân chúng 'đánh hơi' giỏi lắm! Trái lại, khi dân thấy các linh mục thờ thần tượng, những linh mục thay vì có Chúa Giêsu, thì lại có những thần tượng nhỏ, tôn thờ cái thần tôi của mình, thấy các linh mục như thế, dân chúng nói: ”thật là một kẻ tội nghiệp!”.

Và ĐTC kết luận rằng: “Điều cứu chúng ta khỏi những sự trần tục, khỏi sự thờ thần tượng khiến chúng ta bị ”giải dầu”, điều giữ chúng ta trong tình trạng được xức dầu, chính là quan hệ với Chúa Giêsu Kitô. Và ngày hôm nay, anh em đến đây đồng tế với tôi, tôi cầu chúc anh em điều này: Anh em hãy đánh mất mọi sự trong cuộc sống, nhưng đừng bao giờ đánh mất quan hệ này với Chúa Giêsu Kitô! Đó chính là chiến thắng của chúng ta. Với điều đó, anh em hãy tiến bước!” 



(G. Trần Đức Anh OP, RadioVaticana 09.01.2013/ 
SD 11-1-2014)